Thành phố vào tối muộn không giống như tôi tưởng. Không có ánh đèn lung linh như phim, không có tiếng cười rộn rã như mấy clip trên mạng. Chỉ có một bầu không khí xám xịt và cái lạnh len lỏi giữa những toà nhà cao ngất – lạnh hơn cả cái rét đầu đông nơi quê nhà. Cái rét mà mẹ tôi vẫn quàng khăn len vào cổ tôi, lẩm bẩm như tự nói với mình:
“Trời lạnh thế này mà thằng bé lại đi học sớm…”
Giờ tôi đang ngồi co ro ở bậc thềm một nhà ga cũ. Áo gió thì mỏng, đất thì lạnh. Không ai gọi tôi về. Không ai biết tôi đang ở đâu. Và tôi cũng không biết sáng mai mình sẽ bắt đầu như thế nào.
Tôi bật điện thoại lên. Pin còn đúng 9%. Messenger hiện hàng tá tin nhắn từ mẹ:
“Con ơi, con ở đâu rồi?”
“Bố mẹ không cần con giỏi giang, chỉ cần con được bình an.”
“Dù con đi đâu, mẹ vẫn đợi.”
Tôi tắt máy. Không phải vì ghét mẹ. Mà vì sợ. Sợ nếu mình đọc thêm một dòng nữa, nước mắt sẽ rơi mất. Và như thế, tôi sẽ yếu lòng. Mà tôi không được yếu. Tôi đã quyết ra đi. Tôi phải làm được. Tôi phải chứng minh với tất cả, kể cả chính mình: tôi có thể sống tự do, không cần sự quản thúc của bất cứ ai.
Tôi xin ngủ nhờ trong một quán trà đá. Bà chủ nhìn tôi từ đầu tới chân, rồi thở dài: “Thôi, mày nằm tạm sau quầy. Ghế nhựa đấy. Trời sắp mưa rồi.”
Tôi cảm ơn. Giấc ngủ đêm đó không sâu, nhưng đủ để sáng hôm sau tôi lê bước đi tìm việc. Cuối cùng, tôi được nhận rửa bát ở một quán phở nhỏ. 50.000 đồng một ca. Tay nhăn nheo vì nước, vai mỏi nhừ vì bê tô, lau bàn, nhặt rau… Có lần làm rơi cả mâm bát, bị chủ quát, tôi cúi đầu xin lỗi. Điều mà trước đây, tôi chưa từng làm với cha mình.
Ban ngày thì vậy, nhưng tối đến, tôi vẫn là kẻ lang thang. Ghế đá, hiên nhà bỏ hoang, hẻm nhỏ… chỗ nào có mái che là chỗ tôi ngả lưng. Đói thì ăn bánh mì. Khát thì xin nước lọc. Nhưng cô đơn… thì chịu. Những khi yên tĩnh nhất, ký ức lại lội ngược về: buổi tối đọc kinh gia đình, tiếng chuông nhà thờ, ánh mắt buồn buồn của cha xứ mỗi khi thấy tôi bỏ lễ. Tôi vùng dậy, tự nhủ: “Mày ra đi là đúng. Đừng để quá khứ níu chân.”
Một đêm, tôi va vào nhóm thanh niên đang ngồi cười phá lên ở góc phố. Bóng cười. Mắt lờ đờ. Họ gọi tôi lại:
“Ê, mới à? Vào đây cho vui.”
Tôi ngồi xuống. Lâu rồi mới có người bắt chuyện. Họ đập vai tôi, gọi tên tôi như đã thân lắm. Cảm giác ấm áp – dù chỉ là giả tạo – cũng khiến tôi cười.
“Thử tí cho vui? Xả stress ấy mà.”
Tôi do dự. Trong đầu, bỗng hiện lên hình ảnh… một cây thánh giá gỗ. Mẹ tôi treo nó đầu giường tôi. Và cả ánh mắt cha – nghiêm khắc mà xót xa. Tôi lắc đầu:
“Tôi không chơi cái đó.”
Một cậu trạc tuổi tôi kéo tôi ra, có ý tốt:
“Mày cẩn thận. Chúng nó chỉ lợi dụng thôi. Tao từng đưa bạn đi viện vì sốc thuốc. Sợ lắm.”
“Mày là người Công giáo à?”
“Ừ. Trước thì là vậy. Giờ thì… mà sao mày biết” – Cậu im bặt. Rồi chỉ tay vào dây chuyền tôi đang đeo – thánh giá bằng gỗ đã mờ chữ.
“Tao đoán vì cái này.”
Tôi cúi xuống. Quên mất mình vẫn đeo nó. Cây thánh giá tôi được cha xứ tặng năm tôi chịu lễ lần đầu.
Tối hôm ấy, tôi lang thang đến một khu phố lạ. Một nhà thờ nhỏ nép bên đường. Không người, không chuông. Chỉ có ánh nến chập chờn trước tượng Đức Mẹ.
Tôi đứng thật lâu. Không biết vì sao mắt cay… Có thể vì gió. Cũng có thể vì tim tôi – lần đầu sau nhiều ngày bỏ nhà, bỏ xứ đi – đập lại đúng nhịp…
Liệu ánh sáng nhỏ bé kia có đủ để Nam tìm lại hướng đi? Hay cậu vẫn sẽ tiếp tục dấn thân vào những khúc quanh không lối về…?
(Còn nữa…)
An Bình
Tin cùng chuyên mục:
Tấm Gương Đức Tin Của Một Ông Cố
Tấm Gương Đức Tin Của Một Ông Cố
Lễ Đức Mẹ Mân Côi
Đệ Tử Viện: Mừng Lễ Bổn Mạng Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu