Ông Tào, chẳng phải là Tào Tháo, tao lao, Thiên Tào hay Nam Tào gì cả. Nhưng ông chỉ là một con người nhỏ bé, cộng thêm cả hai cái nạng may ra mới được hơn 30kg. Hai chân ông cụt đến gối, hai bàn tay ông mất hết ngón, co rụt lại như hai cục thịt sần sùi. Mặt ông: mũi sụp hết sống mũi làm mặt ông phẳng lỳ. Mắt ông hai mi co lại trông tròn như mắt thỏ, da mặt ông nhăn nheo, dung nhan ông dị dạng. Nhiều người trông thấy ông phải sợ.
Ông mắc bệnh cùi, một thứ bệnh mà người đời xa lánh như một đồ phế thải độc hại. Ông cô đơn, không vợ, không con, người thân cũng không có. Xét bề ngoài, cuộc đời ông tăm tối nhất. Trước mặt ông chỉ là một biển đêm đen dày đặc. Xem ra ông như một người bất hạnh nhất trên đời. Nhưng thực tế ông không bất hạnh vì ông rất vui và bình an. Có thể nói: trước mặt Thiên Chúa, hay những người xung quanh, ông là một người vĩ đại, vì ông có một tâm hồn vĩ đại.
Ông là một giáo dân đạo đức gương mẫu, ông can trường lướt thắng những bất hạnh ấy ngay trong chính cuộc đời tầm thường khốn khổ của mình.
Ông không hề bất hạnh vì luôn có Chúa là hạnh phúc nhất đời. Và vì ông tìm thấy giá trị vĩnh cửu ngay trong chính những đau khổ tột cùng như một kho báu Chúa ban tặng. Ông không hề cô đơn, vì còn có nhiều bệnh nhân khác sống quanh ông, tôn trọng ông, yêu mến ông. Trong cuộc sống quay quắt, ông đã hết sức làm những gì có thể để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân.
* Sống với Chúa:
Ông đã có một đời sống gương mẫu trong cầu nguyện. Ông đã dùng đôi cùi tay tàn phế của mình cặp dùi đánh trống giữ giờ cho giáo dân đọc kinh cầu nguyện hằng ngày. Ông quét dọn, đèn nến trong phòng nguyện để Nhà Chúa luôn trang nghiêm sạch sẽ. Ông luôn hướng dẫn và mời những người đến thăm vào viếng Chúa, cầu nguyện cho mọi người.
* Sống với tha nhân:
Ông quảng đại yêu thương, hòa hợp với mọi người. Có những lần chúng tôi gặp ông nấu cơm, giặt quần áo cho các bệnh nhân khác bị đau, ốm…và biết bao nghĩa cử thầm lặng khác.
Ông nhìn thấy nhu cầu của từng người trong họ giáo cũng như các bệnh nhân khác trong trại, để cầu nguyện, phục vụ và xin người khác giúp đỡ. Chính ông nhiều khi cũng bớt khẩu phần quà của mình để giúp đỡ những người mà ông cho là họ gặp khó khăn hơn mình.
Điều làm tôi cảm động nhất là mỗi khi có người giáo dân nào trong trại ốm đau nặng phải nằm bệnh viện. Mỗi tối chính ông đích thân đến khoa trông coi người ấy cho đến khi suất viện. Hoặc ra đi vĩnh viễn. Bao lâu người bệnh còn nằm bệnh viện, thì bấy lâu ông không ngủ ở nhà.
Đến bệnh viện, ông phải nằm ngoài hành lang vì trong phòng chỉ có bệnh nhân và nhận viên y tế mới được ở, người thăm chỉ đến chốc lát rồi ra. Nhưng ông ở lại suốt đêm này qua đêm khác. Vì vậy, ông phải nằm trước cửa phòng bệnh nhân để nghe ngóng. Nếu giờ họ hấp hối đến, ông sẵn sàng có mặt để giúp bệnh nhân phó mình trong tay Chúa, tin tưởng vào tình yêu Chúa và ra đi bình an.
Ông kiên trì chờ đợi ở đấy để không một người đồng cảnh nào của ông phải ra đi trong cô đơn. Ông đã tiễn họ đi đến cùng con đường của họ. Mặc cho trời mưa, hay tạnh ráo, trời oi bức hay rét cắt da thịt. Ông không chùn bước mà bỏ lỡ một cơ hội nào. Nhiều khi chúng tôi thấy vậy, mời ông ở nhà nghỉ ngơi một vài đêm để chúng tôi thay nhau trông nom giúp. Nhưng ông không chịu. Ông nói: các Sơ còn phải nghỉ lấy sức học, con già rồi không ngủ được, hoặc nếu cần, ngày mai con ngủ bù cũng không sao. Ban ngày có các Sơ làm việc ở đây rồi, con yên tâm ngủ. Đêm con về nhà ngủ không được, lỡ họ ra đi thì sao? Con muốn tiễn họ đi hết chặng đường họ phải đi, có thế con mới an tâm.
Ông không chỉ sống với những người trong cùng một trại, mà ông còn liên lạc, tương quan thân thiện với những người đồng bệnh ở các trại khác nữa. Khi mới đến đây, tôi gặp ông dùng sợi chun nhờ ai khâu vòng sẵn buộc vào cổ tay, dắt cây bút vào để viết thư, những dòng chữ nghệch ngoạc nhưng chứa đầy tình người, cộng với bao hy sinh cố gắng. Thấy tôi chăm chú nhìn ông cách thán phục. Ông đưa thư cho tôi xem và nhờ tôi viết thư giúp ông.
Ông biết khá nhiều người, vì trong suốt một năm tôi học ở đây, mỗi khi ông có thư, ông liền nhắn tôi đến, nhờ đọc thư cho nghe và viết thư hồi âm giúp. Một năm tôi ở đây. ông không phải buộc chun viết thư nữa, nhưng tôi về khỏi, ông lại tiếp tục viết một cách kiên nhẫn, và viết cho cả tôi nữa. Tôi lâu lâu lại viết thư cho ông và dặn ông không phải hồi âm vì thương ông tội nghiệp. Nhưng chỉ sau vài năm ông cũng ra đi với mọi người về với Chúa.
Nhìn gương ông, tôi mới hiểu một cách sâu xa rằng: con người chỉ cần có ý thức, có nhiệt thành thì dù sống trong hoàn cảnh nào cũng có thể phụng sự Chúa và phục vụ mọi người một cách hữu hiệu được.
Tôi nghĩ không ai nghèo hơn ông: Ông không chỉ nghèo về của cải, ngay đôi tay, đôi chân, để phục vụ ông cũng không có, và chính con người của ông cũng còn bị mất mát rất nhiều. Thế mà ông vẫn làm được nhiều việc không nhỏ như thế.
Vậy trước mặt Chúa tôi có lý do gì để bào chữa cho mình, khi Ngài đã cho tôi chứng kiến một mẫu gương như thế. Điều đó luôn ám ảnh và khích lệ tôi cố gắng hơn trong việc phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Nhưng tôi luôn cảm thấy mình như chưa làm đựơc việc gì cả. Tôi còn phải cố gắng rất nhiều, và rất cần lời cầu nguyện của hết mọi người, và tôi tin ông Tào cũng cầu nguyện cho tôi nữa.
Hạt Lúa Mỳ
I must thank you for the efforts you have put in writing this website. Im hoping to view the same high-grade content from you later on as well. In truth, your creative writing abilities has inspired me to get my own, personal website now 😉
דירות דיסקרטיות בקריות Freeda Hollister
Thank you very much. I wish you success